Thái thượng hoàng Trần_Thái_Tông

Bản in của sách lý luận triết lý Phật Pháp của nhà vua viết vào năm 1260

Ngày 24 tháng 2 năm Nguyên Phong thứ 8 (tức ngày 30 tháng 3 dương lịch năm 1258), Trần Thái Tông truyền ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, tức Hoàng đế Trần Thánh Tông. Trần Thái Tông lui về cung Thánh Từ làm Thái thượng hoàng, được Thánh Tông dâng tôn hiệu Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế (顯堯聖壽太上皇帝). Từ đây, Nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, thứ nhất để tránh việc tranh giành ngôi báu giữa các con (do đã sớm được định đoạt), thứ nữa là rèn luyện cho vị hoàng đế mới cai trị đất nước càng sớm càng tốt.[5][87]

Trên cương vị là Thượng hoàng, Trần Thái Tông vẫn hỗ trợ, hướng dẫn con mình trị nước, củng cố nền thống trị của họ Trần, mở mang giáo dục, kinh tế, văn hóa và quan tâm theo dõi tình hình phương Bắc.[5][88] Sách Việt sử tiêu án đã kể lại: "Thượng hoàng ban yến cho quần thần ở điện Diên Hiền, có sao chổi hiện ra ở phận vị sao Liễu, sáng rực trời; Thượng hoàng ra coi, bảo rằng: "Sao Liễu là địa phận Lâm An, không phải là thiên tai ở nước ta"... tháng 10 năm ấy [1264] thì vua Nhà Tống mất".[80][68] Thượng hoàng cũng đích thân đón tiếp sứ bộ Mông Cổ do Trương Lập Đạo (Trương Hiền Khanh) làm Chánh sứ vào năm 1265.[89][58] Trong thời gian này, hai vua Trần một mặt giao hảo với Nam Tống (năm 1262, Tống Lý Tông sắc phong Trần Thái Tông làm Kiểm hiệu Thái sư An Nam Quốc Đại vương, Thánh Tông làm An Nam Quốc vương, tặng thêm vàng và gấm vóc), mặt khác chấp nhận triều cống Mông Cổ 3 năm 1 lần, nhưng cự tuyệt mọi yêu sách nhằm biến Đại Việt thành một thuộc quốc của Mông Cổ.[90][91][92][93]

Đền Thái ViHành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), nơi các vua Trần xuất gia.

Sau khi nhường ngôi vua cho con, Trần Thái Tông có nhiều thời gian hơn cho việc nghiên cứu, giảng dạy Thiền tông. Thượng hoàng đã dựng chùa Phổ Minh tại Thiên Trường (Nam Định) và am Thái Vi tại hành cung Vũ Lâm (Hoa Lư, Ninh Bình) để tu tập, đồng thời chỉ đạo dân khai hoang, mở ấp.[41][94] Thượng hoàng còn viết thêm nhiều sách dạy Phật học, trong đó có Khóa hư lục (Tập bài giảng về lẽ hư vô), Lục thì sám hối khoa nghi (Nghi thức sám hối vào sáu thời khắc trong một ngày), Kim Cương Tam Muội Chú Giải (Chú giải kinh Kim Cương Tam Muội, ngày nay đã thất lạc, chỉ còn bài tựa in trong quyển Khóa hư lục), Bình đẳng lễ sám văn (Bình đẳng sám hối) cùng một số bài luận giảng về việc tọa thiền, việc niệm Phật và một bài răn về tửu sắc...[41][95][96] Trong bài Phổ thuyết sắc thân (Nói rộng về sắc thân) thuộc bộ Khóa hư lục, Thái Tông có giảng về sự vô thường, giả tạm của thân người và sự không thể tránh khỏi của cái chết:[97]

Hết thảy các người! Giống hệt con rối, đều nhờ sợi tơ kéo rút, đùa đến đùa đi cùng sanh một thứ, sau khi buông đi, thật là đáng chết. Tự khởi muôn việc tính toán... Chẳng lo già bệnh chết đến, chỉ thích sắc tài rượu thịt... Một hôm bệnh nặng trầm kha, trăm năm trọn về mộng lớn... Nhặt thu hài cốt, chôn cất thịt xương... Quan quách phó cho đóm lửa ma trơi nơi hoang dã, mả mồ giao cho muôn dặm núi sông. Khi xưa tóc đen má ửng, ngày nay xương trắng tro đen. Khi mưa lệ rơi thì mây sầu thê thảm, lúc gió buồn thổi thì trăng sáng hắt hiu. Đêm vắng thì quỷ khóc thần sầu, năm dài thì ngựa giày trâu đạp. Lửa đom đóm lập lòe trong đám cỏ xanh, tiếng dế ngâm nỉ non cạnh hàng dương liễu. Bia ghi nửa chìm, rêu xanh phủ, tiều phu giậm mãi thành lối mòn. Dầu cho văn chương cái thế, giả sử tài sắc nghiêng thành, chung cuộc đâu có đường khác, cuối cùng cũng chỉ một lối đi.

— Trần Thái Tông

Hoặc như trong bài tựa Lục thì sám hối khoa nghi, Trần Thái Tông có giải thích công dụng của nghi thức sám hối trong việc chuyển ác làm lành:[98]

Ôi! Chúng sinh bản lại giác-tánh, thanh-tịnh viên-minh. Lắng như thái-hư, không một hạt bụi. Bởi bọt vọng khởi, cõi uế hiện thành. Năng sở nương nhau, Phật, ta hai ngả. Tính căn riêng rẽ, ngu, trí chia đường. Chỉ bảo một môn, khó thể ngộ nhập. Nên đức Phật ta, hoằng tứ nguyện lớn, phương tiện mở nhiều pháp-môn, chỉ nẻo đường về, ứng bệnh cho thuốc. Biết huyễn cấu của chúng sinh, từ vọng mà có. Khuyên họ một niềm siêng năng quy-y lễ sám. Khiến thân tâm thanh tịnh, tròn sạch như xưa. Gió lặng sóng dừng, bụi hết gương sáng. Vì, tâm xưa làm ác, như mây che mặt trăng; tâm nay làm lành, như đuốc tan bóng tối. Ôi! Công dụng của lễ sám, thật quả là lớn, đâu chỉ có thế!

— Lục thì sám hối khoa nghi

Sáng tác của Thượng hoàng trong giai đoạn này được Hòa thượng Thích Nhất Hạnh nhận xét là "còn chín chắn hơn Thiền Tông Chỉ Nam mà hồi viết vua chỉ mới trên 30 tuổi".[41]

Trần Thái Tông còn là một nhà thơ, đã để lại tập Trần Thái Tông ngự tập (1 quyển), được Phan Huy Chú khen là "lời thơ thanh nhã, đáng đọc".[99] Ngày nay tập thơ này đã thất lạc, chỉ còn lại 2 bài Kỷ Thanh Phong am tăng Đức Sơn (Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong) và Tống Bắc sứ Trương Hiền Khanh (Tiễn Bắc sứ Trương Hiền Khanh) chép trong An Nam chí lược, Việt âm thi tậpToàn Việt thi lục.[100][41][58]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trần_Thái_Tông http://www.britannica.com/EBchecked/topic/602237 http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb12917756f http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb12917756f http://www.idref.fr/050637681 http://id.loc.gov/authorities/names/n84077885 http://d-nb.info/gnd/104238372 http://isni-url.oclc.nl/isni/0000000063074526 http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-k... http://www.nomfoundation.org/nom-project/history-o... http://www.thuvien-thichnhathanh.org/index.php/tac...